Dàn ý Cảm nhận 3 khổ đầu bài thơ Ánh Trăng để thấy vẻ đẹp của tình nguời và ánh trăng


Dàn ý Cảm nhận 3 khổ đầu bài thơ Ánh Trăng để thấy vẻ đẹp của tình nguời và ánh trăng

Hướng dẫn

a.Đặt vấn đề:

-Nguyễn Duy thuộc thể hệ nhà thơ quân đội, trưởng thành trong cuộc kháng chiến chống Mĩ. Thơ ông giàu chất triết lý, thiên về chiều sâu nội tâm với những trăn trở, day dứt, suy tư. Bài thơ Ảnh trăng được sáng tác năm 1978, như một lời tâm sự chân thành, sâu lắng, như một lời nhắn nhủ thấm thìa mà trước hết là tự nhắc nhở mình.

-Bài thơ là một câu chuyện nhỏ được kể theo trinh tự thời gian, từ quá khứ đến hiện tại. Trong dòng tự sự ấy, nhà thơ kể về mối quan hệ giữa mình và vầng trăng. Đó là những kỉ niệm đẹp, tình cảm gắn bó giữa con người và vầng trăng trong quá khứ. Khi thay đổi môi trường sống, con người đã lãng quên vầng trăng. Điều đó được thể hiện qua ba khổ thơ đầu của bài thơ (Trích dẫn thơ).

b.Triển khai:

-Ánh trăng trước hết là tiếng lòng, là sự tự vấn lương tâm cùa riêng Nguyễn Duy. Nhà thơ đứng giữa hôm nay mà suy ngẫm về thời đã qua và từ tâm trạng riêng, tiếng thơ ông cất lên như một lời nhắc nhở. vầng trăng ở đây không chỉ là một hình ảnh cụ thể của đất trời mà còn là biểu tượng cho một quá khứ đẹp đẽ, là mối liên hệ giữa tâm tình riêng và ý nghĩa phổ biến rộng lớn, giữa nội dung cụ thể và tính khái quát của bài thơ. Khổ thơ đầu gợi nhắc về những kỉ niệm trong quá khứ:

Hồi nhỏ sống với đồng
với sông rồi với bể
hồi chiến tranh ở rừng
vầng trăng thành tri kỉ

-Vầng trăng tuổi thơ của tác giả được trải rộng trên một không gian bao la, rộng lớn: cánh đồng, dòng sông, biển cả. Hai câu thơ mười tiếng gieo vần lưng đồng, sông. Từ với được lặp đi lặp lại ba lần để nói lên tuổi thơ được đi nhiều, được cảm nhận những vẻ đẹp của thiên nhiên thoáng đãng. Thật sung sướng khi được thả hồn trên đồng quê, ngắm trăng trên dòng sông, trải trên bể. Thiên nhiên bình dị, hiền hòa và đáng yêu.vầng trăng gắn bó với nhà thơ từ lúc nhỏ. Tuổi thơ của chúng ta có mấy ai được cái may mắn ấy. Đến khi lớn lên phải sống trong chiến tranh, ỏ' trong rừng, ánh trăng đã trở thành tri kỉ:

Xem thêm:  Thuyết minh Chuyện chức phán sự đền Tản Viên của Nguyễn Dữ

hồi chiến tranh ở rừng
vầng trăng thành tri ki

-Từ tri ki có nghĩa là biết người như biết mình. Bạn tri kỉ như người bạn rất thân, hiếu biết mình. Từ hồi nhò đến lúc chiến tranh là một thời gian dài để xây đắp một tình cảm vững bền. Không phải dễ gì mà người ta coi nhau như tri ki. Trăng với người bạn trong những năm ở rừng thời chiến tranh đã trở nên đôi bạn không thể rời xa.

-Đất nước đã trải qua những năm dài máu lửa. Trăng với anh bộ đội đã vượt mọi sự tàn phá hủy diệt bon đạn cùa quân thù. Các tao nhân ngày xưa cũng thường lên lầu vọng nguyệt, còn các anh bộ đội cũng một thời xông pha mặt trận, cũng có những lúc đứng trên đồi cao hay đi hành quân vượt núi cũng say sưa ngắm trăng. Thời gian thậtv dài mà tác giả chỉ gói gọn trong bốn dòng thơ thật ngắn gọn.Ta cảm nhận như đang có một nỗi lòng rưng rưng xúc động ẩn hiện trong mỗi dòng thơ, chỉ chờ dâng trào lên. Và nét độc đáo ở từng chữ mỗi đầu dòng thơ không viết hoa, phải chăng Nguyễn Duy muốn cho cảm xúc được dào dạt trôi theo dòng chảy của thời gian, của kỉ niệm?. Tác giả cũng nhắc cả những suy nghĩ của mình về vầng trăng và con người đối với sự việc trong quá khứ:

trần trụi với thiên nhiên
hồn nhiên như cây cỏ
ngỡ không bao giờ quên
cái vầng trăng tình nghĩa.

-Lại một vần lưng nữa xuất hiện, âm điệu thơ đi liền mạch trần trụi – thiên nhiên – hồn nhiên. Hình ảnh ẩn dụ so sánh làm nổi bật chất trần trụi, chất hồn nhiên cùa người lính suốt những năm tháng ở núi rừng. Đó còn là cốt cách của người lính:

trần trụi với thiên nhiên
hồn nhiên như cây cỏ.

-Con người đã sống hết lòng với thiên nhiên, con người cũng như cây cỏ là những người bạn hồn nhiên không thể tách rời. vầng trăng là biểu tượng đẹp của những năm tháng ấy, đã trở thành vầng trăng tri kì, vầng trăng tình nghĩa ngỡ như không bao giờ quên. Một ý thơ làm lay động đến tâm hồn như một sự thức tĩnh lương tâm đối với những kẻ vô tình ngỡ không bao giờ quên. Cái vầng trăng tình nghĩa. Từ ngỡ như một điểm nhấn, một dấu hiệu đặc biệt. Nó gợi cho ta suy nghĩ
về những điều còn chưa nói. Từ ngỡ như một lối rẽ đưa ý tho' theo hướng khác: đó là giá trị của ngôn từ, là nhãn tự trong bài, là tài năng thể hiện của nhà thơ mà ta không dễ gì nhận ra được.

Xem thêm:  Bức tranh hiện thực nơi phố huyện nghèo lúc chiêu tối được Thạch Lam thể hiện trong truyện ngắn "Hai đứa trẻ" và phát biểu cảm nhận của mình

-Chiến tranh đã đi qua, hòa bỉnh lập lại, cũng như bao người lính khác, tác giả trở về cuộc sống bình thường. Nhưng nhà thơ không phải trở về với sông, với biển mà trở về với thành phố tấp nập đông vui:

Từ hồi về thành phố
quen ánh điện cứa gương
vầng trăng đi qua ngõ
như người dưng qua đường.

-Từ cuộc sống ở núi rừng, trở về cuộc sống nơi thị thành, sống bình yên và đầy đủ với ánh điện, cửa gương và không biết tự bao giờ vầng trăng đã trờ thành người dưng, vầng trăng tri kỉ, vầng trăng nghĩa tình đã bị lãng quên, hờ hững. Cách so sánh thật thấm thìa. Ánh trăng đã bị lu mờ trước ánh đèn chiếu rọi. Mới ngày nào vầng trăng ấy gắn bó tuổi thơ rồi vẫn đồng hành cùng ta trên bước đường hành quân. Vậy mà giờ đây ta lại vô tình dửng dưng. Lẽ nào ta lại vô tình lãng quên quá khứ. Câu thơ không trực tiếp bộc lộ cảm xúc nhưng sức ám ảnh vô cùng mạnh mẽ. Tác giả đã tạo ra sự đối lập giữa vầng trăng tri kỉ, tình nghĩa trong quá khứ và vầng trăng như người dung qua đường trong hiện tại để diễn tả những thay đổi trong tình cảm con người. Hôm nay con người sống trong sự sung túc, bỏ lại sau lưng quá khứ, gắn bó ân tình giữa thiên nhiên bình dị và con người. Tưởng như con người ở đây tự đánh mất chính mình, đánh mất miền kí ức thăm thẳm có đau thương mất mát nhưng vô cùng gắn bó.

Xem thêm:  Đề 50 – Trình bày suy nghĩ của em về lòng khoan dung – Phát triển kỹ năng làm bài văn chọn lọc 9

-Giữa con người với thiên nhiên, với vầng trăng là quan hệ chung sống, quan hệ thân tình khăng khít. Trăng là người bạn đồng hành trên mỗi bước đường gian lao nên trăng hiện diện như là hình ảnh cùa quá khứ, là hiện thân của kí ức chan chứa nghĩa tình. Thế mà khi hòa bình lập lại, con người về chốn đô thành đã vội bội bạc với vầng trăng. Trăng vẫn thủy chung khiến lương tri con người thức tĩnh.

-Dân tộc Việt Nam, con người Việt Nam luôn có truyền thống chung thủy, nghĩa tình. Gần gũi với chúng ta hơn đó là cha mẹ. Ai ai cũng lớn lên qua những câu hát chứa chan tình thương của mẹ. Rồi chính cha là người dẫn dắt ta đi khắp nẻo đường đời. Tình thương của cha mẹ luôn là trời bể. Các thầy cô giáo là những người dạy dỗ chúng ta nên người. Thầy cô trang bị cho chúng ta những hành trang vững chắc nhất để vào đời, đó là kiến thức. Do đó, ai cũng rất yêu mến cha mẹ, kính trọng thầv cô, không quên công lao to lớn của họ đã giúp chúng ta khôn lớn. Vì thế, lối sống ân nghĩa thủy chung là bổn phận tất yếu, là đạo lý làm người, là một tình cảm đẹp đẹp xuất phát từ trong chính mỗi con người chúng ta.

c.Đánh giá:

-Đoạn thơ tái hiện thời quá khứ êm đềm cùa tác giả gắn liền với những không gian quen thuộc, đó là cánh đồng, dòng sông, biển cả. Lúc nhà thơ đi chiến đấu, trăng tiếp tục là người bạn tri kỉ. Khi đất nước thanh bình, nhà thơ chuyển không gian sinh sống đến chốn thành phố phồn hoa và vầng trăng đã bị mất dần theo kí ức.

– Ba khô thơ đâu là cái cớ khơi gợi cảm xúc, có ý nghĩa rât khái quát, sâu săc bởi lời nhan nhủ chân thành, là niềm tin về tình bạn, tình người bất diệt. Ánh trăng cũng chính là biểu tượng cho tình người để chúng ta điều chỉnh hành vi của mình, để sống tốt đẹp hơn.

Nguồn: Vietvanhoctro.com

Bài viết liên quan