Thuyết minh về một thể loại văn học (Phú)


Thuyết minh về một thể loại văn học (Phú)

Gợi ý

Phú lá thể loại văn học tiếp thu của văn học Trung Quốc từ đời Trần và được vận dụng liên tục qua các đời Lê, Mạc, Lê, Nguyễn cho đến thời cận đại.

Đây là thể tài xuất hiện tương đối muộn mà sớm thành công. Phú là một thể văn vần, có cấu trúc về câu rất phức tạp (câu, vế ngắn, dài), lại có lối diễn đạt giống lối diễn đạt của văn xuôi. Nói khác đi, phú là một thể văn vần lai văn xuôi. Nguyên thể phú đã có từ lâu trong văn chương Trung Quốc. Đời Đường, thế kỷ 7, 8, 9, đã có nhiều tác giả nổi danh, đặc biệt là Tô Đông Pha với Tiền Xích Bích phú và Hậu Xích Bích phú.

Những bài phú của Việt Nam có vần, có đối, câu ngắn, câu dài làm theo thể văn biền ngẫu. Phú làm theo kiểu thơ Li tao, có đệm chữ “Hề” (chừ) giữa câu. Ví dụ: “Sớm thuyền chừ Nguyên Tương, chiều lần thăm" chừ Vũ Huyệt” (Bạch Đằng giang phú). Phú biền ngẫu sử dụng câu văn tứ lục chỉnh tề, đối nhau từng đôi một. Ví dụ:

“Ba góc bờ tre vẳng vẳng, huyệt kim quy chênh hẻm đá gang ghềnh

Một chòm bãi cỏ phơi phơi, hang anh vũ thấu lòng sông huếch hoác”

(Ngã ba Hạc phú)

Phú luật thì hạn vần, trong bài phú mỗi đoạn làm theo một vần nhất định đã ra trong đề bài, dùng để đi thi.

Xem thêm:  Qua những bài thơ đã học và đọc thêm, anh (chị) hãy phân tích những biểu hiện của cảm hứng yêu nước của nền văn học Việt Nam sau Cách mạng tháng Tám 1945

Phú văn xuôi tuy sử dụng hình thức văn xuôi nhưng vẫn có câu tứ lục.

Về nội dung, phú ban đầu thuộc loại hình tụng ca, được sáng tác để ca ngợi sự nghiệp đế vượng, thiên nhiên, phong cảnh. Phú là thể loại văn học dùng để miêu tả, phô diễn, trình bày, giãi bày tất cả cảnh vật, tâm trạng của con người. Một sáng tác viết theo thể phú có khả năng miêu tả tường tận, bao quát chính xác các sự vật. Thể phú thường dùng để nói những cái tươi tốt, đẹp đẽ. Đề tài trong thể phú rất đa dạng, thịnh hành ở nhà Hán. Theo nhà mĩ học Trung Quốc Lí Trạch Hậu, ở Trung Quôc đề tài của phú là sơn thuỷ, cây rừng, chim thú, thành thị, cung khuyết, mĩ nữ, y phục bách nghệ. Việt Nam, Ngọc tỉnh liên phú của Mạc Đĩnh Chi ngợi ca hoa sen giếng ngọc; Bạch Đằng giang phú của Trương Hán Siêu ngợi ca sự nghiệp giữ nước anh hùng; Chí Linh sơn phú của Nguyễn Trãi ca ngợi sự nghiệp của Lê Lợi; Phụng thành xuân sắc phú của Nguyễn Giản Thanh ca ngợi cuộc sông thịnh vượng. Phú của nguyễn Công Trư, Cao Bá Quát biểu hiện chí khí con người,…

Về hình tượng, phú cổ thường dùng hai nhân vật “khách – chủ” vần đáp, hoặc dùng hình tượng ẩn dụ, lấy cái này để nói cái kia. Ví dụ bài Ngọc tỉnh liên phú của Mạc Đĩnh Chi lấy việc ca ngợi hoa sen giếng ngọc để tự khẳng định giá trị của mình trước nhà vua. Bài Phú con ngựa lá của Nguyễn Phi Khanh và Đoàn Xuân Lôi dùng hình ảnh con ngựa lá để ca ngợi sự nghiệp của nhà vua. Hình tượng xa xưa của phú ở Trung Quốc thường mang tính chất “ẩn ngữ”, tức là bóng giá, mượn cái này để nói cái kia. Nhưng từ Bạch Đằng giang phú, Ngã ba Hạc phú, Hàn nho phong vị phú, Tấi tử đa cùng phú,… thì phú còn mang tính chất miêu tả trực tiếp sự vật, đôi tượng thực tế.

Xem thêm:  Cảm nghĩ về bài thơ Bạn đến chơi nhà Ngữ văn lớp 7

Về thủ pháp nghệ thuật, nét đặc trưng của phú là miêu tả sự vật rất nhiều chi tiết, nhìn sự vật từ nhiều góc độ. Bài phú đem lại một sự nhìn ngắm đối tượng rất gần và ngồn ngộn chi tiết. Ví dụ cảnh nghèo trong “Hàn nho phong vị phú”:

Kìa ai, bốn vách tường mo, ba gian nhà cỏ

Đầu kèo mọt toạc vẽ sao, trước cửa nhện giăng màn gió

Phên trúc ngăn nửa bếp nửa buồng

ống nứa đựng đầu kề đầu đỗ

Đầu giường tre mối giũi quanh co

Góc tường đất giun đùn lố nhố

Bóng nắng rọi trứng gà bèn vách, thằng bé tri trô

Hạt mưa soi hang chuột trong nhà, con mèo ngấp ngó

Trọng cũi lợn nămg gặm máng, đói chẳng muốn kêu

Đầu gian chuột chạy khua niêu, buồn thôi lại bỏ.

Một thủ pháp cũng tiêu biểu không kém, đó là sự cường điệu, phóng đại trong đánh giá. Ví dụ cách khen và khoe hoa sen trong giếng ngọc đồng thời chê các thứ hao khác của Mạc Đĩnh Chi:

Ta có giống lạ trong ống áo này

Chẳng phải như đào trần, lí tục, chẳng phải như trúc lánh mai gầy

Câu kỉ phòng tăng khó sánh

Mẫu đơn đất Lạp nào bì;

Giậu Đào lệnh cúc đâu ví được, vườn Linh quân lan sá kể gì!

Ấy giống sen giếng Ngọc trên đỉnh núi Thái Hoa đây.

Phú có nghĩa là phô bày. Với các đặc điểm phô, khen, khoe, giàu chi tiết, nhưng lại có ẩn ý kết hợp với lối văn Li tao, vàn biền ngẫu làm cho phú đọc rất thú vị. Phú là thể loại có nhiều gò bó. Nó đòi hỏi sự tài hoa trong cảm nhận, sự giàu có về từ ngữ mới tránh được sự trùng lặp, gò gẫm và đạt được cái hay tự nhiên.

Xem thêm:  Cảm nhận về bài thơ Cảnh khuya của Hồ Chí Minh

Phú có hai loại: cổ thể và cận thể. Phú cận thể thì quy tắc chặt chẽ, nghiêm ngặt. Phú cổ thể thì phóng khoáng hơn, thể hiện sự sáng tạo của người viết.

Vanmau.edu.vn

Bài viết liên quan