Soạn bài lớp 9: Ánh trăng


Soạn bài lớp 9: Ánh trăng

Hướng dẫn

Soạn bài: Ánh trăng

Soạn bài lớp 9 học kì 1: Ánh trăng dưới đây được VnDoc sưu tầm và giới thiệu với các bạn để tham khảo để hiểu rõ hơn về ý nghĩa của ánh trăng của Nguyễn Duy đã mang sức sáng nối liền giữa quá khứ và hiện tại và là tấm gương để soi lòng, sự thức tỉnh bừng ngộ chân lý giúp các em học sinh chuẩn bị tốt kiến thức để học tốt môn Ngữ văn lớp 9 một cách dễ dàng nhất.

ÁNH TRĂNG

Nguyễn Duy

I. KIẾN THỨC CƠ BẢN

1. Ánh trăng của Nguyễn Duy mang sức sáng nối liền quá khứ – hiện tại, là tấm gương trăng để soi lòng. Con người của gốc lúa bờ tre, của nắng nỏ trời xanh, của lời ru trọn kiếp người không đi hết, của “Nước chè tươi rót vàng mơ” ấy thường hay giật mình giữa chốn đô hội ồn ào:

Tắc kè…

tắc kè…

tôi giật mình

[…]

cái âm thanh của rừng lạc về thành phố

[…]

Chợt hiện về thăm thẳm núi non kia”

(Nghe tắc kè kêu trong thành phố)

2. Những năm tháng “Xẻ dọc Trường Sơn đi cứu nước” đã trở thành nguồn mạch hồi ức thường trực trong tâm hồn nhà thơ. Cho nên chỉ một tiếng tắc kè kêu cũng đủ khơi cho nguồn mạch ấy dào dạt chảy. Thì ra, người vốn thiết tha với đồng quê bình dị, say sưa với ca dao hò vè cũng là người ân tình với quá khứ gian lao, nặng lòng với núi rừng một thủa. Với Ánh trăng, Nguyễn Duy lại thêm một cái “giật mình”.

Trăng cứ tròn vành vạnh

kể chi người vô tình

ánh trăng im phăng phắc

đủ cho ta giật mình.

Mạch cảm xúc đi từ quá khứ đến hiện tại và lắng kết trong cái “giật mình” cuối bài thơ. Trăng hiện diện trong quá khứ, đột ngột sáng trong hiện tại và mặc nhiên vằng vặc trong suy ngẫm nhân tình.

Xem thêm:  Tưởng tượng em đã trưởng thành và kể lại kỉ niệm đáng nhớ với thầy cô giáo cũ của mình

Vầng trăng tình nghĩa sáng trong không gian và thời gian kí ức:

Hồi nhỏ sống với đồng

với sông rồi với bể

hồi chiến tranh ở rừng

vầng trăng thành tri kỉ

Trần trụi với thiên nhiên

hồn nhiên như cây cỏ

ngỡ không bao giờ quên

cái vầng trăng tình nghĩa

Con người và thiên nhiên hài hoà trong mối kết giao tri kỉ, thuỷ chung. Từ những năm tháng tuổi thơ bươn trải nhọc nhằn gắn bó với đồng, với sông rồi với bể cho đến những năm tháng chiến tranh gian khổ sống với rừng, bao giờ trăng cũng gần gũi, thân thiết. Giữa con người với thiên nhiên, với trăng là mối quan hệ chung sống, quan hệ thâm tình khăng khít. Trăng là người bạn đồng hành trên mỗi bước đường gian lao nên trăng hiện diện như là hình ảnh của quá khứ, là hiện thân của kí ức chan hoà tình nghĩa. Người ta cứ đinh ninh về sự bền chặt của mối giao tình ấy, nhưng:

Từ hồi về thành phố

quen ánh điện, cửa gương

vầng trăng đi qua ngõ

như người dưng qua đường

Cuộc sống hiện đại với ánh sáng chói loà của ánh điện, cửa gương đã làm lu mờ ánh sáng của vầng trăng. Tác giả đã tạo ra sự đối lập giữa hình ảnh vầng trăng tri kỉ, tình nghĩa trong quá khứ và vầng trăng “như người dưng qua đường” trong hiện tại. Sự đối lập này diễn tả những đổi thay trong tình cảm của con người. Thủa trước, ta hồn nhiên sống với đồng, với sông, với bể, với gian lao “ở rừng”, khi ấy trăng chan hoà tình nghĩa, thiên nhiên và con người gần gũi, hoà hợp. Bây giờ, thói quen cuộc sống phương tiện đủ đầy khiến ta không còn thấy trăng là tri kỉ, nghĩa tình nữa. Nhà thơ nói về trăng là để nói thế thái, nhân tình.

Tuy nhiên, cuộc sống hiện đại luôn có những bất trắc. Và chính trong những bất trắc ấy, ánh sáng của quá khứ, của ân tình lại bừng tỏ, là lúc người ta nhận thấy giá trị của quá khứ gian lao mà tình nghĩa, thiếu thốn mà đủ đầy:

Thình lình đèn điện tắt

phòng buyn-đinh tối om

vội bật tung cửa sổ

đột ngột vầng trăng tròn

Đây là khổ thơ quan trọng trong cấu tứ của toàn bài, là sự chuyển biến có ý nghĩa bước ngoặt của mạch cảm xúc, bộc lộ rõ chủ đề tư tưởng của bài thơ.

3. Không chỉ là sự thay thế đúng lúc của ánh trăng cho ánh điện, ở đây còn là sự thức tỉnh, bừng ngộ về ý nghĩa của những ngày tháng đã qua, của những cái bình dị của cuộc sống, của tự nhiên, là sức sống vượt ra ngoài không gian, thời gian của tri kỉ, nghĩa tình. Các từ “bật tung”, “đột ngột” diễn tả trạng thái cảm xúc mạnh mẽ, bất ngờ. Có cái gì như thảng thốt, lo âu trong hình ảnh “vội bật tung cửa sổ”. Vầng trăng tròn đâu phải khi “đèn điện tắt” mới có? Cũng như những tháng năm quá khứ, vẻ đẹp của đồng, sông, bể, rừng không hề mất đi. Chỉ có điều con người có nhận ra hay không mà thôi. Và thế là trong cái khoảnh khắc “thình lình” đối diện với trăng ấy, ân tình xưa “rưng rưng” sống dậy, thổn thức lòng người:

Ngửa mặt lên nhìn mặt

có cái gì rưng rưng

như là đồng là bể

như là sông là rừng

Đối diện với trăng là đối diện với chính mình, với con người hiện tại và cả với con người trong quá khứ. Sự đồng hiện thời gian – không gian/trăng – người được thể hiện bằng ngôn ngữ lập thể. Vầng trăng mang ý nghĩa biểu tượng. Mặt trăng đối diện với mặt người, mặt trăng cũng là mặt người, là quá khứ đang sáng trong thực tại, trăng là tri kỉ, ân tình xưa,…

Xem thêm:  Nghị luận xã hội về vấn đề an toàn giao thông

4. Từ khổ thơ đầu là vầng trăng (4 lần) đến khổ thơ cuối bài là ánh trăng. Ánh trăng bất chợt soi chiếu, thản nhiên và độ lượng, sự im lặng của ánh trăng là sự im lặng của chân lí. Bình dị, mộc mạc nhưng đủ khiến “ta giật mình”. Cái chân lí giản đơn đã thành đạo lí: “Uống nước nhớ nguồn”.

II. RÈN LUYỆN KỸ NĂNG

1. Hình ảnh thơ trong bài có tính biểu tượng. Hiểu được ý nghĩa của hình ảnh ánh trăng, mới hiểu được cảm xúc ân tình với quá khứ gian lao, tình nghĩa của tác giả và từ đó rút ra bài học về cách sống cho bản thân.

2. Khi đọc, cần chú ý sự kết hợp hài hoà giữa yếu tố trữ tình và yếu tố tự sự trong bố cục, giữa ý nghĩa cụ thể và ý nghĩa khái quát của hình tượng thể hiện trong bài thơ.

Dưới đây là bài soạn Ánh trăng bản rút gọn nếu bạn muốn xem hãy kích vào đây Soạn văn 9: Ánh trăng

Ngoài đề cương ôn tập chúng tôi còn sưu tập rất nhiều tài liệu học kì 1 lớp 9 từ tất cả các trường THCS trên toàn quốc của tất cả các môn Toán, Văn, Anh, Lý, Hóa, Sinh. Hy vọng rằng tài liệu lớp 9 này sẽ giúp ích trong việc ôn tập và rèn luyện thêm kiến thức ở nhà. Chúc các bạn học tốt và đạt kết quả cao trong kì thi sắp tới

Theo Khotangvan.com

Bài viết liên quan